Email:
info@saovietmps.com.vn
The International Group of P&I Clubs
The thirteen P&I Clubs which comprise the International Group (the “Group”) between them provide marine liability cover (protection and indemnity) for approximately 90% of the world’s ocean-going tonnage.
Group functions
The Group has three “core” functions, firstly the operation of the claims sharing (“pooling”) arrangements and the collective reinsurance of these arrangements, secondly it operates as a forum for collecting and exchanging views between the Clubs and their shipowner members on matters relating to shipowners’ liabilities, and insurance of such liabilities, and thirdly it provides a collective industry voice for the purposes of engaging with external stakeholders including intergovernmental maritime organizations, national governments, marine authorities around the world and the shipping and marine insurance/reinsurance industries.
Nguồn: https://www.igpandi.org/
Hiệp hội INTERTANKO
INTERTANKO (Hiệp hội quốc tế các chủ tàu chở dầu độc lập) là hiệp hội thương mại đóng vai trò là tiếng nói cho các chủ tàu chở dầu độc lập kể từ năm 1970, đại diện cho lợi ích của các Thành viên ở cấp quốc gia, khu vực và quốc tế.
Tổ chức này tích cực hỗ trợ các mạng lưới năng lượng toàn cầu bằng cách cung cấp các dịch vụ vận tải an toàn, hiệu quả và thân thiện với môi trường.
INTERTANKO tích cực giải quyết một loạt các vấn đề về vận hành, kỹ thuật, pháp lý và thương mại ảnh hưởng đến chủ sở hữu và người vận hành tàu chở dầu trên khắp thế giới.
Dựa trên sự liên hệ thường xuyên và trực tiếp với các Thành viên và các bên liên quan khác trong ngành để phát triển và phổ biến thông tin và phương pháp tốt nhất, cần thiết cho ngành công nghiệp tàu chở dầu.
Nguồn: www.intertanko.com
Chính sách cảng PETROLIMEX
Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex)
(Đang cập nhật)
Chính sách cảng Hải Linh
CÔNG TY TNHH HẢI LINH
(Đang cập nhật)
OCIMF và các thành viên chủ dầu
Sự cố tàu dầu thô Torrey Canyon bị mắc cạn năm 1967 đã dấy lên một làn sóng quan ngại của công chúng trên thế giới đối với các sự cố gây ô nhiễm môi trường từ các tàu chở dầu.
Vào đầu những năm 1970, đã có nhiều sáng kiến chống ô nhiễm được đề xuất trên phạm vi quốc gia, khu vực và quốc tế, nhưng chỉ có tính chất riêng lẻ, rất ít sự phối hợp chung giữa các tổ chức, quốc gia.
Diễn đàn Hàng hải Quốc tế của các Công ty dầu (Oil Companies International Marine Forum – OCIMF) lại khác. Đây là tổ chức tự nguyện của các công ty dầu mỏ trên thế giới. Thông qua OCIMF, ngành công nghiệp dầu mỏ đã có thể đóng một vai trò điều phối mạnh mẽ hơn để đáp ứng các sáng kiến này, làm cho kiến thức chuyên môn của ngành được phổ biến rộng rãi thông qua hợp tác với các chính phủ và các cơ quan liên chính phủ.
OCIMF đã được cấp tư cách tham vấn tại Tổ chức Hàng hải Quốc tế (International Maritime Organization – IMO) vào năm 1971 và tiếp tục trình bày quan điểm của ngành dầu mỏ tại các cuộc họp của IMO. Kể từ đó, vai trò của OCIMF được mở rộng đáp ứng sự biến chuyển trong hoạt động hàng hải của các thành viên. Nội dung hoạt động của OCIMF bao gồm an toàn, sức khỏe, an ninh và môi trường liên quan đến tàu chở dầu, sà lan, tàu ngoài khơi và các giao diện đầu cuối. OCIMF không chỉ đóng góp một số lượng đáng kể các quy định tại IMO nhằm cải thiện sự an toàn của tàu chở dầu và bảo vệ môi trường, mà còn đưa ra hướng dẫn mới quan trọng về các vấn đề cấp bách hiện nay như cướp biển và vận tải biển ở Bắc Cực. OCIMF ở vị trí duy nhất có thể tận dụng kiến thức chuyên môn của thành viên để thúc đẩy hướng dẫn cần thiết về các vấn đề quan trọng của ngành. Điều này giúp không chỉ các thành viên mà còn cả ngành công nghiệp dầu khí áp dụng các quy định, đồng thời cũng làm tài liệu tham khảo có giá trị để xây dựng quy định mới.
Hơn 100 thành viên hiện tại của OCIMF bao gồm tất cả các công ty dầu mỏ lớn trên thế giới cùng với phần lớn các Công ty Dầu khí Quốc gia (Tập đoàn Dầu khí Việt nam là thành viên chính thức của OCIMF vào tháng 11 năm 2010).
Ngày nay, OCIMF được công nhận rộng rãi như tiếng nói của ngành công nghiệp dầu mỏ, cung cấp kiến thức chuyên môn trong việc vận chuyển, xử lý hydrocacbon một cách an toàn và có trách nhiệm với môi trường cả đối với tàu vận chuyển lẫn kho cảng, đồng thời liên tục thiết lập và cải tiến các tiêu chuẩn an toàn.
OCIMF có một danh mục công cụ phong phú nhằm đánh giá thực trạng của các đối tượng tham gia vào hoạt động dầu khí, bao gồm chương trình SIRE, TMSA, OVID, MTIS được đề cập chi tiết dưới đây.
– Chương trình Báo cáo Kiểm tra Tàu (SIRE) bao gồm:
- Bộ câu hỏi khai báo đặc tính tàu (VPQ)
- Bộ câu hỏi kiểm tra tàu (VIQ)
- Chương trình đào tạo và chứng nhận Thanh tra viên SIRE
- Hệ thống quản lý dữ liệu SIRE của OCIMF
Chương trình Tự đánh giá và Quản lý Tàu chở dầu:
Bộ tài liệu TMSA 3 gồm 13 lĩnh vực cần được đánh giá trong toàn bộ hoạt động quản lý an toàn thể hiện tại Chương trình Quản lý An toàn của mỗi Chủ tàu (SMS)
Chương trình Bộ dữ liệu kiểm tra phương tiện nổi OVID:
- Bộ câu hỏi khai báo đặc tính tàu (OVPQ)
- Bộ câu hỏi kiểm tra (OVID) tàu
- Chương trình đào tạo và chứng nhận Thanh tra viên OVID
- Hệ thống quản lý dữ liệu OVID của OCIMF
Chương trình Hệ thống thông tin Cảng bao gồm:
- Bộ Câu hỏi khai bảo Thông tin cảng
- Chương trình Tự đánh giá và Quản lý cảng
- Chương trình Đánh giá năng lực và Đào tạo Điều hành cảng
Nguồn tham khảo: https://www.ocimf.org/about-ocimf/members
Hiệp hội IACS và VR
Tận tâm cho những con tàu an toàn và vùng biển sạch, IACS là một đóng góp duy nhất vào an toàn và quy định hàng hải thông qua hỗ trợ kỹ thuật, xác minh tuân thủ và nghiên cứu và phát triển. Hơn 90% trọng tải chuyên chở hàng hóa trên thế giới được áp dụng các các quy tắc và tiêu chuẩn thiết kế phân loại, xây dựng và tuân thủ quy định do 12 Hiệp hội thành viên của IACS đặt ra.
IACS là tổ chức thành viên không vì lợi nhuận của các hiệp hội phân cấp nhằm thiết lập các tiêu chuẩn và yêu cầu kỹ thuật tối thiểu để giải quyết vấn đề an toàn hàng hải và bảo vệ môi trường cũng như đảm bảo áp dụng nhất quán của quy định. Thực hiện trách nhiệm này thông qua các ban điều hành, nhóm chuyên gia và nhóm dự án và cung cấp
Chương trình Chứng nhận Hệ thống Chất lượng (QSCS) mà các Thành viên tuân thủ, như một sự đảm bảo về tính toàn vẹn nghề nghiệp và duy trì các tiêu chuẩn chuyên môn cao. IACS được công nhận là cố vấn kỹ thuật chính của IMO.
Các thành viên IACS bao gồm:
ABS / BV / CCS / CRS / IRC / KR / NK / PRS / RINA / RS
Thông tin CDI
CDI được thành lập theo luật của Hà Lan với tên gọi Viện phân phối hóa chất Stichting (CDI) và hoạt động như một tổ chức phi lợi nhuận.
CDI chịu trách nhiệm kiểm tra và kiểm toán chuỗi cung ứng toàn cầu đối với việc vận chuyển và lưu trữ các hóa chất dạng khối và đóng gói. CDI không phải là một hiệp hội thương mại; mà phi lợi nhuận, phi thương mại và không bị ảnh hưởng chính trị.
CDI được ra đời từ ngành công nghiệp sản xuất hóa chất, dành cho ngành công nghiệp hóa chất vào năm 1994 và trong những năm qua đã phát triển từ thế mạnh này sang thế mạnh khác. CDI phục vụ các thành viên công ty hóa chất của CDI và cung cấp nhu cầu kiểm tra và kiểm toán của họ nhằm cung cấp cho họ các hệ thống hiệu quả về chi phí để đánh giá rủi ro bằng cách sử dụng kiến thức tốt nhất về hóa chất và LPG hiện có.
Cấu trúc của CDI cũng có những thành phần như sau:
- Bộ câu hỏi khai báo đặc tính tàu (HVPQ)
- Bộ câu hỏi kiểm tra tàu (SIR)
- Chương trình chứng nhận Thanh tra viên tàu (CDI M-A)
- Bộ câu hỏi kiểm tra quản lý kho cảng (MQ)
- Bộ câu hỏi kiểm tra kỹ thuật kho cảng (TQ)
- Chương trình chứng nhận Thanh tra viên kho cảng (CDI T-A)
- Hệ thống quản lý dữ liệu của CDI
Chính sách PVOIL
Đối tượng áp dụng: Các tàu/sà lan do Tổng công ty sở hữu hoặc thuê để vận chuyển hàng xăng dầu trong hệ thông kho cảng của Tồng công ty Dầu Việt Nam.
Chính sách PVGAS
Phạm vi áp dụng: Quy trình này áp dụng trong kiểm tra an toàn đối với các phương tiên thủy của các đơn vị, cá nhân có liên quan vào làm hàng/làm dịch vụ tại Kho cảng PVGAS Vũng Tàu và kho LPG Gò Dầu.
Chính sách cảng NSRP
MỤC ĐÍCH: Mục đích chính sách thanh kiểm tra là đảm bảo an toàn cao nhất trong khai thác cảng và vận chuyển dầu bằng đường biển nhằm bảo vệ con người, môi trường, tài sản và uy tín của NSRP, chủ hàng và người khai thác tàu.